Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập

 

  ĐÔI NÉT VỀ QUÊ HƯƠNG BẮC GIANG

Go down 
Tác giảThông điệp
MY LOVE
thành viên năng động cấp 2
thành viên năng động cấp 2
MY LOVE


Tổng số bài gửi : 445
Join date : 31/07/2011
Age : 37
Đến từ : Bắc Giang

 ĐÔI NÉT VỀ QUÊ HƯƠNG BẮC GIANG  Empty
Bài gửiTiêu đề: ĐÔI NÉT VỀ QUÊ HƯƠNG BẮC GIANG     ĐÔI NÉT VỀ QUÊ HƯƠNG BẮC GIANG  Icon_minitimeWed Aug 24, 2011 11:25 am

MỜI CÁC BẠN VỀ THĂM BẮC GIANG QUÊ TÔI

Đến với Bắc Giang là đến với những đặc sản nổi tiếng của một vùng quê sông núi hữu tình như Bánh đa Kế thơm mùi vừng rang, rượu làng Vân đậm hương tình nơi thôn quê, và còn nữa Vải thiều Lục Ngạn chín cháy rực một vùng trời tháng 7. Đặcbiệt, ngày nay Bắc Giang còn được biết đến một tỉnh có nhiều tiềm năng về du lịch, nghỉ dưỡng với những địa danh nổi tiếng như: Khu du lịch Khuân Thần, Hồ Cấm Sơn, Thắng cảnh Nước vàng, hay những khi di tích lịch sử và văn hóa như: chùa Vĩnh Nghiêm, đình Thổ Hà... Và một lẽ dĩ nhiện, nói đến Bắc Giang không thể không nói đến Suối Mỡ, SUỐI RÊU...

Sơ lược về tỉnh Bắc Giang

Hành chính, chính trị
Bí thư tỉnh ủy Nông Quốc Tuấn
Chủ tịch HĐND Thân Văn Khoa
Chủ tịch UBND Bùi Văn Hải
Địa lý
Tỉnh lỵ Thành phố Bắc Giang
Miền Đông Bắc
Diện tích 3.822,7 km²
Các thị xã / huyện 9 huyện
Nhân khẩu
Số dân (2009)
• Mật độ 1.555.720 người
407 người/km²
Dân tộc Việt, Nùng, Sán Chay, Hoa, Tày
Thông tin khác
Mã bưu chính 21
ISO 3166-2 VN-54
Biển số xe 13, 98

Bắc Giang là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, giáp với nhiều tỉnh thành, phía Bắc giáp Lạng Sơn, phía đông giáp Quảng Ninh, phía tây giáp Thái Nguyên và Hà Nội, phía nam giáp Bắc Ninh và Hải Dương. Tỉnh lỵ: thành phố Bắc Giang, cách Hà Nội 51 km.

Địa lý
Suối nước vàng với màu nước vàng óng trên dãy núi Phật Sơn, một phần của dãy Yên Tử thuộc xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc GiangVị trí: Là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bắc Bộ, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh, phía bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía tây giáp tỉnh Thái Nguyên và huyện Sóc Sơn (Hà Nội) và phía Nam giáp tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Hải Dương.

Bắc Giang có diện tích tự nhiên 3.823 km², chiếm 1,2% diện tích tự nhiên của Việt Nam. Theo tài liệu năm 2000, trong tổng diện tích tự nhiên của Bắc Giang, đất nông nghiệp chiếm 32,4%; đất lâm nghiệp có rừng chiếm 28,9%; còn lại là đồi núi, sông suối chưa sử dụng và các loại đất khác.

Bắc Giang có địa hình trung du và là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi phía bắc với châu thổ sông Hồng ở phía nam. Tuy phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh là núi đồi nhưng nhìn chung địa hình không bị chia cắt nhiều. Khu vực phía bắc tỉnh là vùng rừng núi. Bắc Giang nằm kẹp giữa hai dãy núi hình cánh cung và cùng mở ra như nan quạt, rộng ở hướng Đông Bắc, chụm ở phía Tây Nam (tại vùng trung tâm tỉnh), là: cánh cung Đông Triều và cánh cung Bắc Sơn, phần giữa phía Đông tỉnh có địa hình đồi núi thấp là thung lũng giữa hai dãy núi này. Phía Đông và Đông Nam tỉnh là cánh cung Đông Triều với ngọn núi Yên Tử nổi tiếng, cao trung bình 300-900 m so với mặt biển, trong đó đỉnh cao nhất là 1.068 m; phía Tây Bắc là dãy núi cánh cung Bắc Sơn ăn lan vào tới huyện Yên Thế, cao trung bình 300-500 m, chủ yếu là những đồi đất tròn trĩnh và thoải dần về phía đông nam. Tại vùng núi phía đông bắc tỉnh, giáp với Quảng Ninh có khu rừng nguyên sinh Khe Rỗ rộng 7153 ha với hệ động vật và thực vật phong phú, bao gồm 236 loài cây thân gỗ, 255 loài cây dược liệu, 37 loài thú, 73 loài chim và 18 loài bò sát.

Trên địa bàn Bắc Giang có 374 km sông suối, trong đó ba sông lớn là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu. Sông Lục Nam chảy qua vùng núi đá vôi nên quanh năm nước trong xanh. Sông Thương bắt nguồn từ hai vùng có địa hình và địa chất khác nhau nên nước chảy đôi dòng: bên đục, bên trong.

Ngoài sông suối, Bắc Giang còn có nhiều hồ, đầm, trong đó có hồ Cấm Sơn và Khuôn Thần. Hồ Cấm Sơn năm ở khu vực giáp tỉnh Lạng Sơn, dài 30 km, nơi rộng nhất 7 km và chỗ hẹp nhất 200m. Hồ Cấm Sơn có diện tích mặt nước 2.600 ha, vào mùa mưa có thể lên tới 3.000 ha. Hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước 240 ha và lòng hồ có 5 đồi đảo được phủ kín bởi rừng thông 20 tuổi. Người ta có thể dạo chơi trên hồ Khuôn Thần bằng thuyền đạp chân hoặc thuyền gắn máy, vừa cùng người Sán Chỉ, Cao Lan, Nùng bản địa hát soong hao, vừa thưởng thức những sản phẩm độc đáo của địa phương như hạt dẻ, mật ong và rượu tắc kè.


Dân số và các dân tộc thiểu sốUớc điều tra dân số 01/04/2009, dân số Bắc Giang có 1.555.720 người, với mật độ dân số 407 người/km², gấp 1,7 lần mật độ dân số bình quân của cả nước. Trên địa bàn Bắc Giang có 26 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đông nhất là người Kinh, chiếm 88,1% dân số toàn tỉnh, tiếp đến là người Nùng chiếm 4,5%; người Tày 2,6%; người Sán Chay và người Sán Dìu, mỗi dân tộc 1,6%; người Hoa 1,2%; người Dao 0,5%.


Lịch sửThời vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, Bắc Giang thuộc bộ Võ Ninh.

Đời Lê, đây là phủ Bắc Hà, năm 1822 đổi là phủ Thiên Phúc, đến đời Tự Đức là phủ Đa Phúc.

Từ ngày 5 tháng 11 năm 1889 đến ngày 9 tháng 9 năm 1891 đã tồn tại tỉnh Lục Nam. Tỉnh Lục Nam gồm các huyện Bảo Lộc, Phượng Nhỡn, Lục Nam, Hữu Lũng (tách từ phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh, ở bên tả ngạn sông Thương) và huyện Yên Bái (tách từ tỉnh Lạng Sơn). Năm 1891 sau khi trả hai huyện Bảo Lộc và Phượng Nhỡn cho tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Lục Nam bị xóa bỏ để nhập vào Đạo Quan binh I.

Tỉnh Bắc Giang được thành lập ngày 10 tháng 10 năm 1895, tách từ tỉnh Bắc Ninh, bao gồm phủ Lạng Giang, phủ Đa Phúc và các huyện Kim Anh, Yên Dũng, Phượng Nhỡn, Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Thế và một số tổng nằm ở phía nam sông Lục Nam. Tỉnh lỵ là Phủ Lạng Thương (nay là thành phố Bắc Giang). Năm 1896, phủ Đa Phúc và huyện Kim Anh được trả lại cho tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1950, tỉnh Bắc Giang thuộc Liên khu Việt Bắc (1949-1956) và gồm 7 huyện: Hiệp Hoà, Lục Ngạn, Yên Thế, Lạng Giang, Việt Yên, Yên Dũng, Hữu Lũng.

Ngày 22-2-1955, huyện Sơn Động từ tỉnh Quảng Yên trả về tỉnh Bắc Giang.

Ngày 1-7-1956, khi thành lập Khu tự trị Việt Bắc, huyện Hữu Lũng sáp nhập vào tỉnh Lạng Sơn thuộc Khu tự trị Việt Bắc.

Ngày 21-1-1957, chia 2 huyện Sơn Động và Lục Ngạn thành 3 huyện Sơn Động, Lục Ngạn và Lục Nam.

Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Bắc Giang nhập với Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc và đến ngày 01 tháng 1 năm 1997 lại tách ra như cũ.



Các đơn vị hành chính
Bắc Giang có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố và 9 huyện, với 229 xã, phường và thị trấn:

Thành phố Bắc Giang.
Yên Thế.
Tân Yên.
Lục Ngạn.
Hiệp Hoà.
Lạng Giang.
Sơn Động.
Lục Nam.
Việt Yên.
Yên Dũng.


Kinh tế
Nằm trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng, liền kề vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, Bắc Giang rất thuận lợi trong phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực.

Bắc Giang đã quy hoạch và triển khai các khu công nghiệp cùng một số cụm công nghiệp với tổng diện tích gần 1.500ha, trong đó có 1 khu công nghiệp đã cơ bản lấp đầy.[1]

Các khu công nghiệp nằm ở phía Nam tỉnh Bắc Giang thuộc các huyện Việt Yên và Yên Dũng. Được quy hoạch liền kề nhau, nằm dọc theo đường quốc lộ 1A mới Hà Nội - Lạng Sơn, gần với các đô thị lớn, thuận lợi cả về đường bộ, đường sông, đường sắt và đường hàng không và các cảng sông, cảng biển. Cách thủ đô Hà Nội khoảng 40 km, Sân bay quốc tế Nội Bài 45 km; Cảng Hải Phòng khoảng 110 km và cách cửa khẩu Hữu Nghị Quan 120 km, có hệ thống hạ tầng tương đối hoàn chỉnh; thuận lợi cả về hệ thống cung cấp điện, nước, bưu chính viễn thông.

Các khu, cụm công nghiệp đó là:

Khu công nghiệp Đình Trám, diện tích 100 ha;
Khu công nghiệp Song Khê - Nội Hoàng, diện tích 180 ha;
Khu công nghiệp Quang Châu, diện tích 426 ha;
Khu công nghiệp Vân Trung, diện tích khoảng 442 ha;
Khu công nghiệp Việt Hàn diện tích 100 ha, giai đoạn hai mở rộng tới 200 ha.
Cụm công nghiệp cơ khí ô tô Đồng Vàng, diện tích khoảng 38 ha.


Ngoài các khu, cụm công nghiệp trên, hiện nay tỉnh Bắc Giang dự kiến quy hoạch một số khu, cụm công nghiệp khác, tập trung ở các huyện Yên Dũng, Việt Yên, Hiệp Hoà và huyện Lạng Giang với diện tích các khu khoảng từ 200 ha đến trên 1.000 ha.[2]

Bắc Giang đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp; quan tâm đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp và đặc biệt chú trọng cải cách thủ tục hành chính theo hướng đảm bảo công khai, minh bạch với cơ chế “một cửa liên thông”, nhà đầu tư chỉ cần đến một địa chỉ là Ban quản lý các Khu công nghiệp hoặc Sở Kế hoạch và Đầu tư là được cấp giấy chứng nhận đầu tư, mã số thuế và con dấu.[3]



Danh nhân :
Thánh Hùng Linh Công.
Đoàn Xuân Lôi.
Trịnh Ngô Dụng.
Hoàng Hoa Thám.
Nguyễn Đình Tuân.
Nguyễn Khắc Nhu.
Cô Giang tức Nguyễn Thị Giang.
Bàng Bá Lân.
Nhà thơ Anh Thơ.
Cô Bắc tức Nguyễn Thị Bắc.
Thân Nhân Trung.
Trạng nguyên Giáp Hải.
Dương Công Bột.
Sáu Hà.
Nguyễn Hồng Long.
Anh hùng Nguyễn Văn Cốc.


Danh lam thắng cảnh và du lịchChùa Vĩnh Nghiêm thuộc làng Đức La xã Trí Yên huyện Yên Dũng
Chùa Bổ Đà thuộc xã Tiên Sơn huyện Việt Yên
Làng nghề Thổ Hà thuộc xã Vân Hà huyện Việt Yên
ATK2 - An toàn khu dự bị của Trung ương và Xứ ủy Bắc kỳ
Bảo tàng Hoàng Hoa Thám và Đồn Phồn Xương ở huyện Yên Thế
Lăng Dinh Hương ở Hiệp Hòa
Khu di tích Suối Mỡ và Đền Suối Mỡ huyện Lục Nam
Chùa Đức La huyện Yên Dũng
Thành cổ Xương Giang
Rừng nguyên sinh Khe Rỗ thuộc huyện Sơn Động
Hồ Cấm Sơn và Khu du lịch Khuôn Thần huyện Lục Ngạn
Cây Dã hương hơn 1.000 tuổi ở xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang, gốc cây Dã hương phải 8 người ôm.
Cây dã hương đình Dương Lâm Tân yên

Đặc sản
Rượu Làng Vân
Cái tên làng Vân đã trở thành thương hiệu Làng Vân nổi danh thiên hạ, nơi có thứ rượu đặc biệt không chỉ dân ta ưa xài mà các ông Tây cũng rất khoái.[4]

Rượu Làng Vân là một thứ đặc sản không thể thiếu vào các dịp lễ hội, tết hay làm quà biếu. Rượu được nấu bằng gạo nếp thơm ngon trồng trên cánh đồng làng Vân Xá, xã Vân Hà huyện Việt Yên, cộng thêm men gia truyền bằng các vị thuốc bắc quý hiếm và nghệ thuật nấu rượu tài tình của người làng Vân. Cha truyền con nối, rượu làng Vân nhãn hiệu ‘ông tiên’ nổi tiến khắp mọi miền đất nước và cả ỏ nước ngoài. Từ hàng trục thế kỷ qua hương vị dặc biệt của rượu làng Vân luôn được nhiều du khác chọn mua về làm quà khi lên một vùng Kinh Bắc.[5]Về Vân Hà bạn sẽ được thưởng thức đặc sản rượu làng Vân, thực sự cảm thấy mình ‘‘say” không chỉ bởi những ly rượu mềm môi, thơm nồng mà du khách còn “say” trong những làn điệu dân ca quan họ mượt mà đằm thắm của các liền anh, liền chị bên bờ bắc sông Cầu. Uống rượu và hát quan họ là nét văn hóa truyền thống của người làng Vân. Mỗi khi nâng chén mời nhau ly rượu người làng Vân lại ý tứ và kín đáo bằng việc hát những câu dân ca quan họ để tỏ lòng chân thành của người mời rượu, đó cũng là nét văn hóa đặc trưng của con người vùng Kinh Bắc.[6]

Một nhầm lẫn cho rằng Rượu làng Vân là đặc sản của Bắc Ninh.[7]


Vải thiều Lục Ngạn
Được thiên nhiên ưu đãi, vườn đồi Lục Ngạn có thế mạnh về cây an quả và là nơi tập trung trồng vải thiều lớn nhất cả nước. Đất đá son ỏ đây rất phù hợp với vải thiều nên cây được nuôi dưỡng tươi tốt, lá xanh thẫm, tán cây tròn như những mâm xôi. Đặc biệt, những chùm quả vải chín đỏ mọng, vỏ mỏng căng, hạt rất nhỏ, cùi đầy ngọt lịm, có vị thơm mát , từ lâu trở thành sản vật của quê hương Kinh Bắc, không chỉ nổi tiếng khắp mọi miền quê hương đấtt nước mà còn được xuất khẩu ra nước ngoài[8].

Bánh đa Kế
Bánh đa Kế xuất phát từ làng nghề truyền thống bánh đa xã Dĩnh Kế, Bắc Giang. Điều đặc biệt, cái vị của nó vừa giòn, vừa ngọt của gạo mới và thơm thơm của nắng quê Bắc bộ.Độ nở của chiếc bánh cũng là một đặc điểm để phân biệt.Để ra lò một chiếc bánh đa Kế hoàn hảo phải trải qua rất nhiều công đoạn phức tạp. Với bàn tay khéo léo của người dân Dĩnh Kế, kỹ năng quạt bánh thủ công bằng than hoa khiến chiếc bánh luôn luôn nở đều, đầy đặn, tròn vạnh như mặt trăng đêm rằm và không bị cháy sém. Ngoài ra kỹ thuật rắc vừng, lạc sao cho màu đen, màu vàng điểm lốm đốm đều trên bánh.Bánh đa Kế luôn luôn tạo ra được một nét riêng, không thể lẫn vào đâu. Nó trở thành một thứ đặc sản đậm chất đồng quê Bắc Bộ.[9]

Mỳ Chũ
Dù có từ lâu đời nhưng mỳ Chũ chỉ thực sự để lại ấn tượng cho người ăn cách đây vài năm. Khi mới xuất hiện, thứ mỳ gạo này ít được biết đến, tuy nhiên theo thời gian, cùng với những ưu điểm nổi trội như cái ngọt của bột bao thai hồng, sợi mỳ dai không bị nhừ nát mà loại mỳ của thị trấn Chũ đã có tên và được biết đến trong cuộc sống đời thường của người dân quanh vùng. Không chỉ có thế, mỳ Chũ đã trở thành món quà quê đặc sản người dân nơi đây là quà biếu cho khách và người quen ngoài tỉnh.[10]

(wikipedia.org)
Về Đầu Trang Go down
 
ĐÔI NÉT VỀ QUÊ HƯƠNG BẮC GIANG
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Viết về quê hương Bắc Giang
» Viết về mảnh đất-con người Bắc Giang
» BẮC GIANG :Bút ký - Tản văn
» Trang Văn học Bắc Giang quê tôi
» Trang thơ của người con Bắc Giang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: Thư giản :: Thơ - Văn-
Chuyển đến